Thực Trạng Về Thị Trường Lao Động Ở Việt Nam
Lao động và việc làm hiện nay và trong tương lai vẫn là vấn đề bức xúc, nhạy cảm đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta, đây là vấn đề rất được quan tâm nó có tác động trực tiếp đến mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức, mỗi hộ gia đình và từng người lao động trong cả nước. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đề ra các chính sách nhằm phát triển kinh tế do đó đã làm thay đổi đáng kể về quy mô, cơ cấu lao động và vấn đề về giải quyết việc làm, dần dần chuyển Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, tỷ lệ lao động thất nghiệp, chưa có việc làm của thành phố có xu hướng giảm từ 11,25%, (năm 1991) còn 82% (năm 1994), 6,16% (năm 1997) và 6,18% (năm 1998). Theo điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội công bố ngày 25/10/2001, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 6,28%. Kinh nghiệm mở rộng các cơ hội có việc làm trong những năm 1980 của 69 nước trên thế giới đã cho kết luận; tốc độ tăng của việc làm liên quan chặt chẽ va tỷ lệ thuận với tốc độ tăng của GDP theo đầu người và sự giảm thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực (HDI). Tốc độ tăng GDP theo đầu người hàng năm tăng lên 1% sẽ làm tốc độ tăng việc làm lên 0,18%. Và sự thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực giảm đi 1% sẽ làm tốc độ tăng của việc làm lên 0,09%. Kết quả này cho thấy việc mở rộng cơ hội có việc làm phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và vào việc tăng cường năng lực cơ bản cho con người. Những chính sách giải pháp hoàn thiện thị trường lao động Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm nhằm phát triển thị trường lao động ở nước ta, về giải quyết việc làm cho người lao động, giảm áp lực về lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. trong thời gian hạn hẹp của đề tài “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp” chỉ đề cập tới những vấn đề khái quát nhất. Nội dung của đề tài gồm:
Cà phê việt nam xuất khẩu đi đâu: Cà phê Việt Nam chiếm hơn 45% thị phần cà phê nhập khẩu vào Trung Quốc
Gần 50% trong tổng kim ngạch cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là các sản phẩm các phê đã rang xay, hòa tan uống liền, 3 trong 1…, còn lại là cà phê Robusta chưa rang, chưa khử caffein đóng bao.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết 10 ngày giữa tháng 4/2018, giá cà phê tại thị trường trong nước biến động trái chiều (tùy địa phương) so với 10 ngày đầu tháng 4 nhưng giảm khá mạnh so với cùng kỳ tháng trước.
Chốt phiên giao dịch ngày 20/4/2018, tại huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, giá cà phê tăng 0,3% so với ngày 10/4/2018 nhưng giảm 0,8% so với ngày 20/3/2018, ở mức 36.600 VNĐ/kg. Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê ở mức 37.000 VNĐ/kg, ổn định so với ngày 10/4/2018 nhưng giảm 1,1% so với cùng kỳ tháng trước.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong 15 ngày đầu tháng 4/2018 đạt 81 nghìn tấn, trị giá 153,59 triệu USD, giảm 15% về lượng và giảm 16,4% về trị giá so với cùng kỳ tháng 3/2018, tăng 18,9% về lượng nhưng giảm 0,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Tính từ đầu năm đến giữa tháng 4/2018, xuất khẩu cà phê đạt 610,4 nghìn tấn, trị giá 1,182 tỷ USD, tăng 17,3% về lượng và tăng nhẹ 0,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng cà phê trong nửa đầu tháng 4/2018 đạt 1.898 USD/tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ tháng 3/2018 và giảm 16,5% so với cùng kỳ năm 2017. Tính từ đầu năm đến nửa đầu tháng 4/2018, giá xuất khẩu bình quân cà phê đạt 1.937 USD/tấn, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong khi đó theo số liệu thống kê từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc, 2 tháng đầu năm 2018, lượng cà phê nhập khẩu của nước này đạt 7,7 nghìn tấn, trị giá 56,97 triệu USD, tăng 10,1% về lượng và tăng 86,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Trong đó, nhập khẩu cà phê từ Việt Nam 2 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, do đó thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc tăng từ 13,2% trong 2 tháng đầu năm 2017, lên 45,5%.
Việt Nam hiện đang xuất khẩu khá nhiều các sản phẩm đã chế biến sang Trung Quốc. Tính sơ bộ trong 2 tháng đầu năm 2018, gần 50% trong tổng kim ngạch cà phê Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là các sản phẩm các phê đã rang xay, hòa tan uống liền, 3 trong 1…, còn lại là cà phê Robusta chưa rang, chưa khử caffein đóng bao.
Trên thị trường thế giới, giá cà phê Robusta biến động trái chiều do Brazil bắt đầu bước vào vụ thu hoạch mới, sản lượng dự kiến sẽ tăng mạnh 30% so với niên vụ trước.
Tại Việt Nam, lượng bán ra không nhiều do người nông dân giữ lại chờ giá cao. Dự kiến lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 4/2018 chỉ khoảng 2 – 2,4 triệu bao, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2017. Tồn kho cà phê Robusta tại sàn London, tính đến ngày 16/4/2018 đã giảm thêm 1.000 tấn (tương đương mức giảm gần 1,3%) so với tuần đầu tháng 4/2018.
Nhận định giá cà phê thế giới
Giá hai sàn kỳ hạn cà phê robusta London và arabica New York tuần trước đều mất giá. Cả tuần, robusta mất 12 Usd chốt tại 1.296 và lập đáy tại 1.289, đấy cũng là mức thấp nhất tính từ gần 3 tháng nay. Như vậy, chỉ trong vòng hơn một tháng, sàn này mất trên dưới 200 Usd/tấn (hình 1 – phía phải).
Giá arabica cả tuần giảm 0.85 cts/lb hay 19 Usd/tấn chốt tại 97.30 cts/lb, thoát mức thấp nhất tính từ hai tháng rưỡi nay được lập trong tuần là 94.30 cts/lb (hình 1 – phía phải).
Thị trường tài chính thế giới có một phen hoảng loạn khi Ngân hàng nhà nước Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ (CNY) để 1 Usd ăn trên 7 CNY lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ tính từ 2008. Dòng vốn trên thị trường đổ về sàn kim loại vàng và một số đồng tiền mạnh để tìm đường trú ẩn, giá cổ phiếu và nhiều sàn phái sinh nông sản rớt mạnh, hai sàn cà phê không được hưởng biệt lệ.
Cùng lúc đó đồng nội tệ Reais Brazil (Brl) rớt mạnh so với Usd, từ 3,7 Brl ăn 1 Usd xuống gần 4 Brl (hình 1 – phía trái). Đồng Brl mất giá giữa lúc cà phê Brazil đang vào chính vụ. Safras&Mercado, hãng phân tích thị trường cà phê Brazil ước niên vụ 2019-2020 của nước này đạt trên 3,53 triệu tấn cà phê trong đó có 1,1 triệu tấn robusta.
Theo họ, đến cuối tuần trước, tổng diện tích thu hoạch đạt 93% và robusta xem như đã hoàn thành. Đồng Brl yếu thúc đẩy lực bán xuất khẩu tăng nhất là khi cà phê vụ mới đang đầy kho.
Mặt khác, do bất ổn về kinh tế toàn cầu bị qui do thương chiến Mỹ-TQ nay có khả năng đi đến chiến tranh tiền tệ, các quỹ đầu tư tài chính trên sàn cà phê tranh thủ bán thanh lý và bán mới, đưa lượng dư bán (net short) của sàn robusta London lên mức cao kỷ lục, tính đến ngày kết sổ vị thế kinh doanh hàng tuần ngày 06/08/19, họ đã nâng lượng dư bán lên 43.814 hợp đồng tức 438.140 tấn so với kỷ lục trước đây là 41.336 hợp đồng.
Cũng cần biết rằng ngày 27/08/19 sẽ là ngày thông báo giao hàng đầu tiên cho tháng giao 09/19. Các quỹ đầu tư đã bắt đầu bán thoát (chuyển từ tháng 09/19 sang các tháng sau) trong khi áp lực chốt bán các hợp đồng giao sau của các nước sản xuất chỉ mới bắt đầu.
Như vậy, lực bán trên sàn London sẽ xuất phát từ 3 ‘mũi giáp công’: các quỹ đầu tư theo dòng vốn, Brazil vào chính vụ và bán thoát các hợp đồng ‘treo’ trên sàn.
Dù giá các sàn kỳ hạn cà phê giảm, giá cà phê nội địa vẫn ở mức cao, dao động trong khoảng 33,5-34 triệu đồng mỗi tấn. Giá cà phê loại 2, tối đa 5% đen vỡ được chào bán xuất khẩu ở mức cộng bình quân 150 Usd/tấn vào giá niêm yết sàn London. Đây là mức cao hiếm thấy từ trước tới nay cho loại cà phê robusta chất lượng trung bình của Việt Nam.